Thổ phục linh còn gọi là củ khúc khắc, củ kim cang. Tên khoa học Smilax glabra Roxb. (Slilax hookeri Kunth). Thuộc họ Hành tỏi Liliaceae. Thổ phục linh (Rhizoma Smilacis) là thân rễ phơi hay sấy khô của nhiều cây thuốc chi Smilax, trong đó có cây Smilax glabra.

A. Mô tả cây

Thổ phục linh hay cây khúc khắc (Smilax glabra) là một loại cây sống lâu năm, dài 4-5m, có nhiều cành nhỏ, gầy, không gai, thường có tủa cuốn dài. lá hình trái xoan thuôn, phía dưới tròn, dài 5-13cm, rộng 3-7cm, chắc cứng, hơi mỏng, có 3 gân nhỏ từ gốc và nhiều gân con. hoa mọc thành tán chừng 29-30 hoa. cuống chung chỉ ng8án chừng 2mm, cuống riêng dài hơn, chừng 10mm hay hơn. quả mọng, hình cầu, đường kính 6-7mm, hơi 3 cạnh, có 3 hạt.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Mọc hoang khắp nơi ở nước ta. thu hoạch quanh năm, nhưng tốt nhất vào thu đông. đào lấy thân rễ, cắt bỏ rễ nhỏ rửa sạch, đang còn ướt thái mỏng (cho dễ thái), phơi khô; có khi người ta ngâm nước nóng ít phút rồi mới thái cho dễ hơn. có nơi lại đễ nguyên củ phơi khô.

C. Thành phần hoá học

Theo Trung Quốc thổ nông dược chí (1959) thì trong thổ phục linh có saponin, tanin, chất nhựa.

thổ phục linh.jpg

Hiệu quả của thổ phục linh với bệnh vảy nến

D. Công dụng và liều dùng

Thổ phục linh là một vị thuốc được dùng cả trong đông y và tây y (tây y dùng với tên Salsepareille làm thuốc tẩy máu, làm ra mồ hôi, chữa giang mai…)

Theo tài liệu cổ đông y thì thổ phục linh vị ngọt, nhạt, tính bình, vào 2 kinh can và vị. có tác dụng khử phong thấp, lợi gân cốt, giải độc do thuỷ ngân. chữa đau xương, ác sang ung thũng.

Hiện nay thổ phục linh là một vị thuốc:

1) Được dùng trong nhân dân để tẩy độc cơ thể, bổ dạ dày, khỏe gân cốt, làm ra mồ hôi, chữa đau khớp xương.

Liều dùng hàng ngày 10-20g dưới dạng thuốc có khi dùng với liều cao hơn.

2) Làm nguyên liệu chế nước ngọt giải khát tại Mỹ và những nước chịu ảnh hưởng của văn hoá phong tục Mỹ. người ta dùng các loại thổ phục linh S milax medica, S. aristolochiaefolia Mill nguồn gốc ở Mêhicô, S. ornata Hook. f nguồn gốc ở Honduras sansơ parây (salsepareille), còn có tên nước xá xị (tên loại nước uống này ở miền nam nước ta thường gọi). theo thói quen của nhân dân một số nước châu Mỹ người ta uống những loài thổ phục linh này với mục đích giải khát, tẩy độc cơ thể, giúp sự tiêu hoá. nhu cầu những loại thổ phục linh để làm nước giải khát rất lớn, vì tiêu thụ không những chỉ ở riêng những nước như Mỹ, Mehicô… mà còn lan ra rất nhiều nước khác ở châu Á, châu Mỹ latinh v.v… do nhu cầu tăng lên mà cây này hầu như chưa được trồng, nguồn cây mọc hoang dại không đủ, cho nên người ta thay thế bằng một số nguyên liệu khác và làm thơm bằng một hỗn hợp tinh dầu có mùi đặc biệt nhưng vẫn mang tên sansơ parây hay xá xị. những hãng nước ngọt giải khát ở miền nam nước ta trước đây vẫn phải nhập những loại nguyên liệu cô đặc này từ nước ngoài về pha nước rồi đóng chai. chúng tôi cho rằng chúng ta nên nghiên cứu thay thế loại nước uống bằng những nguyên liệu hoàn toàn do ta sản xuất, những loài thổ phục linh có sẵn ở nước ta và giữ nguyên hương vị tự nhiên của nó hoặc tìm một loại hương thơm mà ta có sẵn nguyên liệu lịa hợp với sở thích của nhân dân ta, không cần và không nên tìm tòi hương vị trước đây vì đó là những hương vị hoàn toàn nhân tạo không phải là hương vị tự nhiên của thổ phục linh. nhân dân ta trước đây vẫn thường uống nước kim ngân trộn với khúc khắc trong mùa hè để trừ rôm sẩy, mụn nhọt. như trên ta đã thấy, khúc khắc là tên khác của thổ phục linh.

Bài thuốc kinh nghiệm có thổ phục linh.

Năm 1961, khoa da liễu Quân y viện 108 có dùng cải thiện bệnh vẩy nến (psoriasis) bằng đơn thuốc sau đây:

Hạ thổ thảo nam (cây cải trời)(Blumea subcapitata) 80-120g. thổ phục linh 40-80g. cả hai vị sắc với nước (500ml) trong 3 giờ ở nồi hấp 1500C, được 300ml chia 3 hoặc 4 lần uống trong ngày.

Đã dùng điều trị 21 người khỏi hẳn nhưng có phối hợp ghép Philatôp, 3 trường hợp đỡ 70-80%, 1 trường hơp điều trị dở dang. thời gian điều trị trung bình là 79 ngày (ngắn nhất 23 ngày, dài nhất 118 ngày).

Trong khi uống thuốc có phối hợp bôi những thuốc như thuốc mỡ salixylic 5%, crizp6phanic 5%, dầu Cađơ (huile de Cade) 10%, mỡ Saburô (Sabouraud).

Chú thích:

Trong đông y và tây y đều còn dùng một số loại Smilax nữa như Smilax medica, Schecht et. Cham, Smilax ornata Lem, Smilax officinalis H. B. K. v.v… làm thuốc tẩy độc cơ thể, ra mồ hôi, chưa giang mai.

Với liều nhỏ, nó còn kích thích sự tiêu hoá, nhưng đối với liều quá cao nó có thể gây nôn mửa, biếng ăn v.v…

Trong các loại Smilax dùng trong đông tây y, người ta đã nghiên cứu thấy các chất tinh bột, rất ít tinh dầu, nhựa và một số chất saponoxit, như sacsaponin C45H47O17.

Sacsaponin hay sacsaponozit có tinh thể, độ chảy  2380-2400C, A15D=660 dễ tan trong nước, trong rượu nóng, rất khó tan trong ête, khi thuỷ phân cho glucoza và sacsapogenin có cấu trúc steroit, nếu thuỷ phân bằng axit clohydric 5% sẽ cho sacsapogenin, 2 phân tử glucoza và một phân tử ramnoza. sacsapogenin cũng có tinh thể, độ chảy 199-19905C tan trong cồn hay axeton,có thể kết tủa với digitonin.

Sacsapogenin là một nguyên liệu để tổng hợp hocmon và coctizon.