Trong các yếu tố tạo nên bệnh vẩy nến, có yếu tố di truyền. Nếu cha hoặc mẹ bị bệnh thì con có nguy cơ mắc bệnh này cao hơn những trẻ khác. Do tổn thương có tính chất vô khuẩn nên đây không phải là bệnh lây truyền, không lây nhiễm từ người này sang người khác.

Triệu chứng của bệnh vảy nến

Vẩy nến là một bệnh tự miễn gây ra rối loạn lành tính vùng thượng bì, chiếm khoảng 1,5 – 2% dân số. Bệnh tạo nên những tổn thương trên da là các mảng lớn màu đỏ tía, dày, có vẩy màu trắng bạc xếp nhiều lớp và dễ tróc. Vị trí mắc bệnh thường xuất hiện nhiều ở những vùng tì đè như khuỷu tay, đầu gối, mông, xương cùng, và da đầu (chiếm 90%) và những nơi khác (vẩy nến móng, vẩy nến thể khớp…).

Khi mới mắc bệnh, bệnh không hề gây ngứa hoặc chỉ gây ngứa ít, chỉ có nhiều mảng nổi đỏ. Nếu vô tình hay cố ý làm các tổn thương bị trầy xước, nhiễm khuẩn hay cố gắng làm tróc lớp vẩy hoặc dùng thuốc bôi không đúng thì sẽ gây ngứa, khó chịu, làm bệnh nặng hơn, lan rộng hơn, và các triệu chứng nghiêm trọng hơn.

Do vậy, cần phải nhận biết những dấu hiệu đặc trưng của bệnh để khám bác sĩ kịp thời. Đây là căn bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi, từ trẻ sơ sinh đến người lớn, đa số khởi phát bệnh từ 20 – 30 tuổi cả ở nam lẫn nữ.

Vẩy nến có tính di truyền

Một trong các yếu tố góp phần cấu thành bệnh đó là tính di truyền, trong gia đình nếu cha hoặc mẹ bị bệnh thì 8,1% khả năng con cũng bị bệnh này. Nếu cả cha và mẹ cùng bị thì nguy cơ con mắc phải tăng lên 41%. Mặc dù di truyền như vậy, nhưng bệnh này khoogn lây truyền, không có tính lây nhiễm từ người này sang người khác.

Ngoài cơ quan ngoài da, bộ phận hay bị tổn thương thứ hai đó là khớp, mà phổ biến là bệnh nhân bị viêm đa khớp, viêm cứng cột sống dẫn đễn cứng khớp và biến dạng. Triệu chứng này có thể xuất hiện trước, cùng lúc khi xuất hiện vẩy nến hoặc sau khi bị biến chứng.

Ngoài tính di truyền, các yếu tố khác như stress, chấn thương và nhiễm trùng đều làm cho bệnh nặng hơn. Ngoài ra, một số loại thuốc cũng làm bệnh tiên lượng nặng hơn bao gồm lithitum, vài loại hạ áp (ức chế beta, ức chế men chuyển), một số loại kháng viêm non-steroid, các thói quen xấu như uống rượu bia, hút thuốc lá…

Chế độ ăn uống, sinh hoạt là rất quan trọng đối với bệnh nhân vẩy nến. Người bệnh cần phải tập thói quen ăn uống lành mạnh và sinh hoạt điều độ để bệnh không bị tiến triển nặng thêm. Bệnh vẩy nến có nhiều cách điều trị như sử dụng các loại thuốc bôi dạng kem, mỡ, dung dịch hay gel hoặc thuốc dùng đường chích, đặc biệt là dùng tia cực tím.

Tuy nhiên, tùy từng bệnh nhân, từng loại bệnh, tùy vùng tổn thương mà có cách xử trí, điều trị khác nhau. Hơn nữa, sau một thời gian sử dụng, bệnh sẽ nhờn với điều trị, thuốc không còn hiệu quả. Chính vì thế, người bệnh không nên chủ quan khi thấy bệnh tình có phần thuyên giảm. Cần phải đi tái khám thường xuyên và được bác sĩ theo dõi sát sao mới giúp kiểm soát được bệnh.

Phải có sự kết hợp nhiều loại thuốc với nhau thì mới đạt hiệu quả tốt nhất. Hơn nữa giá cả điều trị cũng gồm nhiều loại nên người bệnh cần phải trao đổi với bác sĩ để tìm cách thích hợp nhất. Vì không tuân thủ đúng chế độ điều trị, ngưng thuốc đột ngột sẽ làm giảm hiệu quả điều trị và làm bệnh nặng hơn.