Điều trị tại chỗ là một trong những phương pháp chữa bệnh vẩy nến được áp dụng hiện nay. Vậy phương pháp này là gì và có ưu, nhược điểm ra sao?
Điều trị tại chỗ khi bị bệnh vẩy nến là gì?
Điều trị tại chỗ (còn gọi là điều trị ngoại khoa) vẩy nến thường là phương pháp điều trị đầu tiên được sử dụng cho bệnh vẩy nến nhẹ đến trung bình. Đây là các loại kem và thuốc mỡ bạn áp dụng cho các khu vực da bị ảnh hưởng.
Một số người thấy rằng, phương pháp điều trị tại chỗ là tất cả những gì họ cần để kiểm soát tình trạng của họ, thông thường, họ có thể mất đến 6 tuần mới đạt được hiệu quả.
Phương pháp điều trị bệnh vẩy nến tại chỗ bao gồm:
Corticosteroid tại chỗ
Những loại thuốc này là thuốc được kê đơn thường xuyên nhất để điều trị bệnh vẩy nến nhẹ đến trung bình. Chúng làm giảm viêm và giảm ngứa có thể được sử dụng kết hợp với các phương pháp điều trị khác.
Thuốc mỡ corticosteroid nhẹ thường được khuyến cáo áp dụng cho các vùng nhạy cảm, chẳng hạn như mặt hoặc nếp gấp da và chúng được dùng để điều trị các mảng da bị tổn thương nặng nề, lan rộng.
Bác sĩ có thể kê toa thuốc mỡ corticosteroid mạnh hơn cho những vùng nhỏ hơn, ít nhạy cảm hơn hoặc khó điều trị hơn.
Sử dụng lâu dài hoặc quá nhiều corticosteroid mạnh có thể gây mỏng da. Corticosteroid tại chỗ có thể ngừng hoạt động theo thời gian. Tốt nhất là người bệnh nên sử dụng corticosteroid tại chỗ trong thời gian ngắn khi bệnh bùng phát.
Vitamin D tương tự
Những dạng tổng hợp của vitamin D giúp làm chậm sự phát triển của tế bào da. Calcipotriene là một loại kem theo toa hoặc dung dịch có chứa một chất tương tự vitamin D điều trị bệnh vẩy nến nhẹ đến trung bình cùng với các phương pháp điều trị khác. Calcipotriene có thể gây kích ứng da của bạn. Điều trị bằng calcitriol rất tốn kém, có thể có hiệu quả giống và ít gây kích ứng hơn calcipotriene.
Vitamin D giúp hỗ trợ cải thiện bệnh vẩy nến
Anthralin
Thuốc này giúp làm chậm sự phát triển tế bào da. Anthralin cũng có thể loại bỏ vẩy và làm cho làn da mịn màng hơn. Nhưng anthralin có thể gây kích ứng da. Nó thường được sử dụng trong một thời gian ngắn lên da và sau đó được rửa sạch.
Retinoids tại chỗ
Đây là những dẫn xuất vitamin A có thể làm giảm viêm. Tác dụng phụ thường gặp nhất là kích ứng da. Những loại thuốc này cũng có thể làm tăng độ nhạy cảm với ánh sáng mặt trời, vì vậy, trong khi sử dụng thuốc thì người bệnh nên thoa kem chống nắng trước khi ra ngoài.
Nguy cơ dị tật bẩm sinh cho thai nhi của retinoid tại chỗ thấp hơn nhiều so với retinoid uống. Nhưng thuốc này không được khuyên dùng khi bạn đang mang thai, cho con bú hoặc nếu bạn có ý định mang thai.
Thuốc ức chế calcineurin
Thuốc ức chế calcineurin - tacrolimus và pimecrolimus giúp giảm viêm và tích tụ mảng bám.
Các chất ức chế calcineurin không được khuyến cáo sử dụng lâu dài hoặc liên tục vì có nguy cơ gia tăng ung thư da và ung thư hạch. Chúng có thể đặc biệt hữu ích trong các vùng da mỏng, chẳng hạn như quanh mắt, nơi các loại kem steroid hoặc retinoid quá khó chịu hoặc có thể gây ra các tác hại ngoài mong muốn.
Axit salicylic
Loại thuốc này có sẵn không kê toa và theo toa, axit salicylic thúc đẩy sự bong tróc của các tế bào da chết và làm giảm kích thước tổn thương da. Đôi khi nó được kết hợp với các loại thuốc khác, chẳng hạn như corticosteroids tại chỗ hoặc than đá để tăng hiệu quả. Axit salicylic có sẵn trong các loại dầu gội để điều trị bệnh vẩy nến da đầu.
Nhựa than
Có nguồn gốc từ than đá, giúp làm giảm diện tích tổn thương da, ngứa và viêm. Than đá có thể gây kích ứng da, làm bẩn quần áo, ga trả giường và có mùi mạnh, khó chịu.
Than đá có sẵn trong dầu gội, kem và dầu. Cách điều trị này không được khuyến cáo cho phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.
Kem dưỡng ẩm
Kem dưỡng ẩm sẽ không chữa lành bệnh vẩy nến nhưng chúng có thể làm giảm ngứa, thu hẹp diện tích tổn thương da và hạn chế khô da. Kem dưỡng ẩm trong một số loại thuốc mỡ thường hiệu quả hơn so với các loại kem nhẹ hơn và các loại kem dưỡng da. Bạn nên sử dụng ngay sau khi tắm để khóa ẩm cho da.